Cha Đaminh Maria Trần Đình Thủ 

Tông Đồ Huấn Thánh Việt Nam

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

 

 

 

Cuộc Khổ Nạn Cuối Đời

 

Vào đầu tháng 8/2006, ngài đã bị tai biến mạch máu não mà không biết. Vào ngày 8/8 ngài mới được đưa vào bệnh viện để chữa trị. Sau khi ở bệnh viện này một ngày một đêm, ngài vẫn không khá hơn mà lại tỏ ý muốn về nhà dòng. Vì tại bệnh viện ngài không ăn được và ngủ được, có lẽ là vì nhớ anh em.

 

Vào ngày 11/8, sức khỏe của ngài càng ngày càng tệ. Ngài chỉ ăn được cháo và phải có người đút cho. Ăn uống chẳng còn ra bữa, lúc nào đói thì ăn, bất kể ngày đêm. Có ngày không ăn gì nhưng ban đêm lại ăn hai lần. Vấn đề vệ sinh thì hoàn toàn không còn làm chủ được nữa, ngài phải mang tã. Tất cả mọi sự đều nhờ anh em giúp. Hoàn toàn cải lão hoàn đồng về thể lý. Ngài không còn dâng lễ được nữa, mà còn chỉ chịu Mình Thánh được thôi. Ngài nói rất khó nghe, vì lưỡi không còn cử động dễ dàng như trước. Tay phải và chân phải bị liệt, phải ngồi trong xe lăn.

 

Ngày 03.01.2007, Cha Đaminh rất yếu mệt, sau mấy ngày liền không ăn ngủ gì, nên anh em Dòng đã đưa Ngài đi cấp cứu tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương, quận 5, và ngài tỏ ra rất sẵn sàng về với Chúa sau khi lãnh phép Xức Dầu và của Ăn Đàng. Nhờ ăn bằng ống và thở bằng ống, sức khỏe ngài khả quan hơn một chút. Theo b ác s ĩ thì ngài vẫn còn bị triệu chứng tai biến mạch máu não, viêm phế quản mãn tính, viêm phổi mãn tính và huyết áp thấp.

 

Nhưng với những lời cầu nguyện và hy sinh thiết tha của anh em Dòng cũng như của những người thân quen, Chúa và Đức Mẹ lại thương đưa Cha Đaminh về chung sống với đoàn em vào ngày 09.01.2007, nhưng vẫn phải tiếp tục ăn bằng ống.

 

Ngày 11.06.2007, bệnh tình Cha Đaminh trở nặng, anh em Dòng lại đưa ngài đi cấp cứu. Ngày 15.06.2007, bệnh Cha Đaminh trở nên nguy kịch, các Bác sĩ quyết định đưa Ngài vào phòng hồi sức đặc biệt. Ngài rất khó thở và phải thở bằng ống. Các bác sĩ nói họ không ngờ ngài có thể sống được tới bấy giờ, và không còn sống được bao lâu nữa.

 

Thật vậy, mọi phương cách đều phải khuất phục Thánh ý Chúa và Người đã gọi Cha Đaminh về với Người lúc 20 giờ 45, thứ Năm, ngày 21.06.2007 tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương, sau 101 năm trên cõi đời, hơn 70 năm làm Linh mục của Chúa Kitô, 52 năm làm Tu sĩ và là Đấng Sáng Lập Dòng Đức Mẹ Đồng Công.

 

 

 

Chiều Tím Canvê Ngày An Táng

 

Suốt thời gian quàn ngài trong nhà nguyện, ngày nào cung mưa, có khi mưa rả rích suốt đêm và mưa lớn ban ngày, giông gió giật mạnh làm các tấm dù căng trên lễ đài phải giăng kéo bằng nhiều sợi dây cáp và dây dù. Việc căng các biểu ngữ cũng gặp phải nhiều khó khăn vì "mưa".

 

Ngày 25 phải đội mưa để căng cho xong, thế mà, sáng ngày 26 trời vẫn mưa rả rích cho đến 6g30 sáng thì tạnh hẳn. Lúc này phải đi lau từng chiếc ghế đã kê trong lễ đài ... trời mát và có chút gió.

 

Nghi thức di quan lúc 7g15 và đến 7g35 mới chính thức làm dấu đầu lễ thì bầu trời đã có nắng, ít mây hơn. Đôi lúc cũng có nắng gắt. Nhưng đến quãng 8g15 thì trời kéo nhiều mây đen hơn, đe dọa, cũng có ít hạt mưa đâu đó và bầu trời tối hơn... Chừng một khắc sau trời lại trở lại quang đãng bình thường với chút nắng  cho đến xong lễ.

 

Lúc Di quan tiễn ngài ra đất thánh cũng chỉ có nắng nhẹ, mát mẻ hơn nhưng khoảng 9g50 thì mây đen kịt kéo đến che lấp cả bầu trời. Ai cũng nghĩ là không xong, chắc phải đội mưa mà an táng cho xong. Ban tổ chức đã mua sẵn 5000 áo mưa du lịch để sẵn, nếu cần thì mặc vào và dự cho đến hoàn tất và nhất định không chạy mưa vì chỗ đâu mà chạy. Nhưng mọi ý nghĩ của con người chẳng phù hợp với ý nghĩ của Chúa. Chừng một khắc sau trời lại quang đãng cho đến khi an táng xong. Trời nắng gắt hơn một chút vì đã hơn 10g.

 

Sau ăn trưa, anh em nghỉ trưa, và đọc kinh trưa xong mới thu dọn lễ đài, tháo dù... Ngoài nghĩa trang thì đổ bê tông và úp Bia. Nhưng quãng 2g45 trời bắt đầu kéo mây đen hơn, dữ dằn hơn, gió cũng lớn đến nỗi tháo dù chưa xong, gió cuốn một số anh em đang cầm dây ghì được gió bốc lên khỏi mặt đất theo cánh dù lên cao đến cả mét và đu đưa qua lại... Ngoài nghĩa trang, sau khi đổ bê tông xong đến việc sửa bia mộ và đặt vào vị trí đang làm thì trời đổ cơn mưa.... đến nỗi, phải che bạt mủ để tránh mưa. Nhưng cũng chỉ mười lăm phút sau là trời quang mây tạnh chỉ lác đác ít giọt...

 

Tóm lại, cuộc đời của vị linh mục được Thiên Chúa sử dụng sáng lập Dòng Đồng Công chẳng khác gì bầu trời Canvê như ngày an táng ngài. Cuộc khổ nạn cuối đời của ngài cũng tương tự như cuộc khổ nạn của Đức Gioan Phaolô II, vị đã không nói được nữa vào chính lúc ban huấn từ Lạy Nữ Vương cho Chúa Nhật Phục Sinh, và đã qua đi trong bệnh tật, sau khi nhập bệnh viện mấy lần, vì những chứng bệnh khác nhau. Cuộc khổ nạn của Cha Đaminh Maria Trần Đình Thủ cũng thế, cũng hầu như cấm khẩu và nhập viện mấy lần vì mấy chứng bệnh khác nhau. Phải chăng các vị thánh đều có một thân mệnh giống nhau, đó là được thông phần khổ nạn với Chúa Kitô, vì Người đã nói: “Thày đi để dọn chỗ cho các con, rồi Thày sẽ trở lại với các con, để Thày ở đâu các con cũng được ở đó với Thày” (Jn 14:3). Đúng thế, nếu ngay ở đời này, vị linh mục được ơn sáng lập Dòng Đồng Công vào chính ngày Lễ Mẹ Đau Thương 4/4/1941 đã được ở với Chúa Kitô Khổ Nạn và Tử Giá thì ngài cũng sẽ được chung phn vinh quang phục sinh với Người, như một hạt lúa miến mục nát đi… (x Jn 12:24).

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bài giảng của Đức Cha Châu Ngọc Tri,

Giám Mục Giáo Phận Đà Nẵng, trong Thánh Lễ An Táng

 

(Có thể nghe trọn Bài Giảng Lễ An Táng Cha Đaminh Maria Trần Đình Thủ, CMC của Đức Cha dài trên 20 phút)

 

Kính thưa Cộng Đoàn Phụng Vụ,

 

Hôm nay, giữa cộng đoàn đông đủ của chúng ta không phải chỉ có một người chết. Vì là cái đinh của buổi lễ hôm nay chín h là Cha Đaminh Maria Trần Đình Thủ, đã sống trên 100 năm, 70 năm linh mục, là vị sáng lập Dòng Đồng Công. Và còn một người thứ hai nữa không biết chúng ta có để ý không? Đây là một người đàn ông chỉ 33 tuổi…

 

Hai cái chết, hai cuộc đời. Cuộc đời Đấng Cứu Thế và c uộc đời của người đi theo Đấng Cứu Thế. Cái chết của Thiên Chúa làm người và cái chết của con người. Cuộc đời này là cảm hứng cho cuộc đời kia. Cái chết này là bảo đảm chắc chắn cho cái chết nọ…

 

Được tin Cha Đaminh Maria qua đời, một linh mục có tuổi đang nói chuyện với tôi, đã nhận định ngay rằng Cha Thủ có lẽ sẽ nên thánh cả chiếu lẫn giường…

 

Tôi không muốn kể lễ dài dòng về cuộc sống của ngài. Vì tôi không được biết nhiều, và tôi cũng không có quyền phong thánh cho ngài. Nhưng mà những gì tôi nghe được, những gì đang diễn ra hôm nay trước mắt chúng ta, với đông đảo các linh mục tu sĩ nam nữ và giáo dân trong một mầu trắng tang chế thương tiếc, cho tôi cái cảm giác rằng ngài đã nên thánh và ngài đang sống trong bình an, trong hạnh phúc. Bởi vì, cuộc đời của ngài đã chọn những phương tiện nên thánh chắc chắn nhất, đó là thập giá Đức Giêsu, với cuộc sống đầy khổ hạnh của ngài, và Đức Maria mà ngài đã nhận làm Mẹ và làm Mẹ của cả hội dòng ngài thành lập…

 

Cha Đaminh Maria, từ ngày thành lập, đã đem Mẹ về dòng mình. Khi chọn tên gọi cho dòng là Dòng Đồng Công. Và hơn thế nữa, ngài còn muốn mọi thành viên của dòng đem mẹ về nhà mình bằng cách đặt tên hiệu của Mẹ sau tên thánh rửa tội của mình. Còn chính ngài mang tên thánh là Đaminh Maria…

 

Thân xác cha Đaminh Maria đang còn ở đây với chúng ta trong phút chốc nữa. Ngài đang tham dự Thánh Lễ sau cùng với chúng ta, rồi thân xác ngài sẽ được vuì sâu vào lòng đất này. Nhưng đức tin của ngài, gương sống của ngài, sự nghiệp Đồng Công của ngài, tôi tin rằng sẽ mãi còn tồn tại…

 

Cùng Cha Đaminh Maria. Chúc mừng cha được Chúa gọi về. Chúc cha luôn bình an hạnh phúc. Và một chút riêng tư, tôi cũng gửi lời thăm Đức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chia, Giám Mục tiên khởi giáo phận Đà Nẵng, vị tiền nhiệm đáng kính của con. Chính người đã ban sắc thành lập Dòng Đồng Công ngày 2/2/1953 tại Bùi Chu, và cũng chính ngài đã nhận lời khấn trọn đời của cha Đaminh Maria vào ngày 2/2/1955 tại nhà thờ Gia Định.

 

Cùng anh em trong đại gia đình Đồng Công. Xin chia buồn trước sự ra đi của Người Anh Cả của anh em. Như Chúa Kitô đã chết để Giáo Hội lớn mạnh, Chúa gọi người Anh Cả về để gia đình Đồng Công được thêm phát triển. Kính chúc anh em luôn thăng tiến...

 

 

Một Trùng Hợp Thánh Nhân

 

Lễ an táng của ngài được tường trình là có trên 4000 giáo dân, 1200 tu sĩ nam nữ, 210 vị linh mục, 3 đan viện phụ và 2 giám mục, chưa kể 100 công an được sai phái đến để giữ trật tự và đề phòng bất trắc xẩy ra.

 

Theo tôi, trong một thời điểm đang hết sức căng thẳng và sôi động tại Việt Nam về tình hình đàn áp thành phần lên tiếng về nhân quyền mà lại có một cuộc tụ họp đông đảo như vậy thì phải kể là sự lạ, như đám tang có thể nói là vĩ đại nhất trong lịch sử loài người diễn ra ở Vatican hôm Thứ Sáu 8/4/2005, với 500 ngàn người tại ngay Quảng Trường Thánh Phêrô, bao gồm trên 300 vị đại diện chính trị và tôn giáo, 600 ngàn người ở các vùng lận cận theo dõi bằng màn ảnh lớn, mà không xẩy ra một bất trắc nào, trong thời điểm đang gia tăng nạn khủng bố toàn cầu.

 

Cả việc thẩm quyền địa phương không cho phép ngài được chôn táng ngài tại nội vi của nhà dòng, song phải mang ra nghĩa trang mà chôn, cũng không ngoài ý Chúa. Theo lịch sử, nếu cộng sản đã hết sức khôn khéo tìm cách chống phá Giáo Hội Công Giáo nói chung và Giáo Hội Balan nói riêng, mà vẫn từ ngay nước cộng sản Balan này xuất hiện một vị Giáo Hoàng không phải người Ý sau 455 năm thế nào, thì nơi trường hợp đổi chỗ an táng cho Cha Thủ cũng chất chứa một ý nhiệm nào đó.

 

Phải chăng, vì Cha Đaminh Maria Trần Đình Thủ là của mọi người, nên ngài thuộc về mọi người, chứ không riêng của Dòng Đồng Công, vì ngài chẳng những được Chúa dùng để sáng lập Dòng Đồng Công mà còn được sai đến để lo huấn thánh cho người Việt Nam, nơi hội dòng Việt Nam đầu tiên do ngài lập nên chính vì mục đích này, và, vì ngài đã thiết tha với đất nước dân tộc Việt Nam, bằng việc liên lỉ xin ơn hòa bình cho Việt Nam, qua các kinh nguyện của ngài dọn cho anh em dòng đọc?! Phải chăng biến cố đổi chỗ chôn táng Cha Đ aminh Maria Trần Đình Thủ này đã ứng nghiệm lời Chúa: “Không ai thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, song đặt nó trên giá để nó soi sáng cho cả nhà” (Mt 5:15)!?

 

Biết đâu, ở ngoài nghĩa trang, sau này, thi thể trong ngôi mộ nằm trong lòng đất dưới bộ tượng Đồi Canvê ấy lại như một hát lúa miến mục nát đi trổ sinh muôn vàn hóa trái (x Jn 12:24)!? Gần mộ của ngài là ngôi mộ của Cha Minh Đăng, nguyên chủ nhiệm Nguyệt San Trái Tim Đức Mẹ, vị linh mục Đồng Công nổi tiếng giảng về Đức Mẹ, bị xe đò cán chết sau năm 1975, đã là ngôi mộ đưc dân chúng đến kính viếng hằng ngày, và không còn chỗ để dựng bảng tạ ơn.

 

Tóm lại, cuộc đời của vị linh mục được Thiên Chúa sử dụng sáng lập Dòng Đồng Công chẳng khác gì bầu trời Canvê như ngày an táng ngài. Cuộc khổ nạn cuối đời của ngài cũng tương tự như cuộc khổ nạn của Đức Gioan Phaolô II, vị Giáo Hoàng đã không nói được nữa vào chính lúc ban huấn từ Lạy Nữ Vương cho Chúa Nhật Phục Sinh 27/3/2005, và đã bị hôn mê rồi qua đi trong bệnh tật hôm Thứ Bảy 2/4, sau khi nhập bệnh viện mấy lần, vì những chứng bệnh trầm trọng khác nhau, như bị đột xuất nhiễm trùng, bị hư tâm mạch bất khả vãn hồi, bị xưng ống tiểu tiện vì nhiễm trùng, bị tăng áp huyết tim và thiếu máu cục bộ.

 

Cuộc khổ nạn của Cha Đaminh Maria Trần Đình Thủ cũng thế, cũng hầu như bị cấm khẩu và nhập bệnh viện mấy lần vì các chứng bệnh khác nhau, như bị tai biến mạch máu não, viêm phế quản mãn tính, viêm phổi mãn tính và huyết áp thấp. Thậm chí, như Chúa Giêsu trong cuộc Khổ Nạn và Tử Giá đã không còn hình thú loài người và dung nhan con người thế nào (x Is 52:13-14), vị linh mục sáng lập Dòng Đồng Công biệt danh Đaminh Maria Thánh Giá cũng đã hoàn toàn biến dạng và biến diện, không còn tầm vóc cân đối và khuôn mặt đẹp lão của ngài nữa, khi ngài vào bệnh viện lần cuối! Tôi đã giật mình đến kinh sợ khi nhìn thấy tấm hình của ngài đang nằm trên giường vào những giờ phút cuối cùng, được một người con của anh em thân hữu Đồng Công ở Việt Nam đã chụp lén nhà thương.

 

Một trùng hợp nữa, ngoài cuộc khổ nạn cuối đời, giữa Cha Đaminh Maria và Đức Gioan Phaolô II, vị Giáo Hoàng “totus tuus”, đó là cả hai đã sống đời tận hiến cho Mẹ Maria theo đường lối của Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort) trong tác phẩm Luận Về Lòng Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria của thánh nhân, một cuốn cẩm nang Thánh Mẫu mà tu sĩ Đồng Công phải học hỏi trong năm tập, một thời gian được mở màn bằng Lễ Nghi Tận Hiến cho Mẹ và được kết thúc bằng lời khấn tạm lần đầu.

 

Phải chăng các vị thánh đều có một thân mệnh giống nhau, đó là được phúc uống chén đắng với Thày (Mt 20:22-23): “Thày đi để dọn chỗ cho các con, rồi Thày sẽ trở lại với các con, để Thày ở đâu các con cũng được ở đó với Thày” (Jn 14:3)? Đúng thế, nếu ngay ở đời này, vị linh mục được ơn sáng lập Dòng Đồng Công vào chính ngày Lễ Mẹ Đau Thương 4/4/1941 đã được Chúa Kitô Khổ Nạn và Tử Giá trở lại để đem ngài đi đến “chỗ” của Người, và ngài đã thực sự được mai táng với Người qua tất cả mọi khổ đau về cả tâm hồn lẫn thể xác của mình trong cuộc hành trình đức tin kéo dài trên 100 năm theo Người, thì ngài cũng sẽ được chung phn vinh quang phục sinh với Người (x Rm 6:4), như một hạt lúa miến mục nát đi…

 

 

Linh Đạo Thơ Ấu Thiêng Liêng

 

Ước vọng duy nhất của Cha Thủ sống trên đời là Nên Thánh và mục đích lập Dòng Đồng Công của ngài là để huấn thánh cho người Việt Nam. Và đường lối nên thánh và huấn thánh của ngài chính là đời sống tận hiến, là sống bé nhỏ.  

 

Thời Điểm Maria xin được phổ biến những điều có thể gọi là nguyên tắc chung về con đường hay linh đạo thơ ấu thiêng liêng, do Cha Đaminh Maria Trần Đình Thủ viết cho một tâm hồn lấy biệt hiệu Bá Vũ Ly (BVL - phiên âm từ tiếng Latinh là "Parvuli" - "Trẻ Nhỏ", câu Chúa Giêsu dạy trong Phúc Âm Thánh Mathêu 18:3 là "Hãy hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ"), ngày 8/7/1972 ở Di Linh Lâm Đồng Việt Nam, vị linh mục đã được thực sự cải lão hoàn đồng về thể lý, trở nên như trẻ nhỏ trong tay chăm sóc của anh em trong dòng, cả về ăn uống lẫn vệ sinh, sau cơn tai biến mạch máu não đột nhiên xẩy ra vào đầu tháng 8/2006. Sau đây là nguyên văn những điều ngài viết cho Hồn Nhỏ Bá Vũ Ly:

 

"Nếu các con không hoan cải và trở nên như trẻ nhỏ, thì chúng con không được vào Nước Trời" (Mathêu 18:3).

 

"Ai hạ mình xuống như trẻ này đó là người lớn trên Nước Trời" (Mathêu 18:4).

 

"Lạy Cha, Con chúc tụng Cha, vì Cha đã giấu kín những việc này nơi các người khôn ngoan và thông thái, mà Cha lại tỏ ra cho những người trẻ thơ" (Mathêu 11:25).

           

Vậy nên xét xem cái gì thuộc về Bản Tính Tuổi Trẻ, cái gì là Đặc Tính của Tuổi Trẻ.

 

Bản tính của tuổi trẻ trong đàng thiêng liêng là: Hoàn toàn bất lực trong mọi lãnh vực, hoàn toàn sống tựa vào người mẹ, như là phần thể của người mẹ, không lìa được sự gìn giữ dưỡng nuôi bồng bế của mẹ.

 

Hoàn toàn bất lực, vì theo tín lý, Chúa dựng nên ta bởi hư vô, trước khi dựng nên ta, ta là hư vô hoàn toàn, Chúa không dùng quyền vạn năng của Người mà kéo ta ra khỏi hư vô, thì muôn đời ta còn là hư vô. Nhưng khi Chúa đã đưa ta ra khỏi hư vô mà làm cho ta nên một sự hữu, thì tự ta, không thể tồn tại được, cần Chúa dùng quyền vạn năng Người mà bảo tồn ta, thì ta mới tồn tại được, đó là điều thuộc Đức Tin, và triết học cũng chứng minh như vậy.

 

Dầu ta được Chúa dựng nên và bảo tồn, nhưng nếu Chúa không trợ lực và không đánh động ta trước, thì ta hoàn toàn bất lực, ta không thể làm được việc gì hết, đó là cái bất lực thứ ba của các loài thụ tạo trong lãnh vực tự nhiên thôi, chứ chưa nói đến hànhđộng siêu nhiên, ta càng bất lực như Đức Tin dạy và chính Chúa Giêsu đã tuyên bố: "Không có Cha chúng con không thể làm gì được" (Gioan 15:5).

 

Điều thứ hai cũng thuộc yếu tính đời sống thơ ấu thiêng liêng là hoàn toàn sống dựa, sống lệ thuộc vào Thiên Chúa: dù hiện hữu, dù tồn tại, dù hành động trong hiện tại, quá khứ và tương lai, hết thảy đều tin tưởng phú thác hoàn toàn nơi quyền vạn năng và tình yêu vô hạn của Thiên Chúa, lòng trí phải thoàt ly hết mọi thụ tạo, duy tình yêu Thiên Chúa lôi kéo thu hút trí lòng họ.

 

Đó là hai yếu tính thuộc đời sống thơ ấu thiêng liêng theo Phúc Âm.

 

Những đặc tính phụ thuộc của tuổi trẻ thiêng liêng là trong sạch, đơn sơ hồn nhiên, thật thà thẳng thắn, dễ dậy dễ tin. Đó là 4 đặc tính (proprietates) của tuổi trẻ.

 

Trong sạch của tuổi trẻ, không những là sạch các tội trọng nhẹ, nhất là phải hiểu sạch tội dâm dục, trẻ con thấy người nữ người nam như nhau, con mắt, lòng trí và con tim đều trong trắng vẹn sạch, không yêu nhăng  nhít, chỉ yêu và dính liền với mẹ thôi.

 

Đơn là không phức tạp, không lèo lá, không chải chuốt, không rào đón, trong có thế nào, ngoài cũng vậy. Một là một, hai là hai, có là có, không là không, tốt là tốt, xấu là xấu. Chúa bảo ta phải đơn sơ như chim bồ câu, nhưng phải khôn ngoan như con rắn.

 

Hồn nhiên là bộ điệu không gò bó, không bị cưỡng ép, không sợ sệt, vui tươi không nghĩ ngợi, vô tư không lo lắng, đó là dấu hiệu tâm hồn quân bình.

 

Không nói dối, không làm gì dối trá, không ở cách dối trá, không nói quanh quéo, không làm quanh quéo, không ở cách quanh co, trong ngoài trung thực, đó là người thật thà. Một người thẳng thắn là một người trong ngôn, hành, phán đoán không thiên vị, không thiên tả, không chủ quan, không yên trí, cứ sự thật, cứ thẳng mực tầu.

 

 Trẻ thơ chưa có ý niệm, chưa có kiến thức gì, nếu không dễ dậy dễ tin, thì muôn đời dốt nát. Đức tính dễ dậy dễ tin trong đường thơ ấu thiêng liêng cũng vậy, nếu không dễ dậy dễ tin các điều Chúa mạc khải, Chúa phán trong Thánh Kinh, Chúa Thánh Linh soi động, nếu không dễ tin các điều giáo huấn của Giáo Hội, các Thánh, các bề trên, thì làm gì hiểu được chân lý siêu nhiên? Làm gì thấu nhập được tinh thần Phúc Âm? Làm gì trở nên siêu thoát? Làm gì nên giống Chúa Kitô, giống Mẹ và các Thanh được? Nhưng trái lại, đối với các lầm lạc, các triết thuyết giả, các tư tưởng trần tục, các phán đoán nhận thức phản Phúc Âm, phản Chân Lý Đức Tin, thì chớ dễ tin dễ dậy, kẻo ta sẽ trở thành tà thần phản Chúa.

 

Trên đây là vài tư tưởng về con đường thơ ấu thiêng liêng Chúa dạy trong Phúc Âm ... cần  suy niệm, rồi chính Chúa và Mẹ sẽ dạy vẽ rất rõ ràng trung thực cho nếu thật khiêm nhượng.  

 

 

Kinh Cầu Xin Ơn Sống Thơ Ngây Bé Mọn

 

Trích kinh nguyện của Cha Đaminh Maria Trần Đình Thủ soạn dọn Mừng Giáng Sinh năm 1964

 

Hỡi Chúa Hài Nhi! Chúa là Tạo Hóa muôn loài, cầm quyền sinh tử vạn vật. Chúa vì yêu chúng con, Chúa đã tự hạ làm con trẻ thơ ngây bé mọn, Chúa đã sinh ra bởi lòng Mẹ Trinh Khiết, Chúa chịu ẵm bế trên tay thanh sạch Đức Trinh Nữ Maria, để dậy cho nhân loại chúng con tinh thần Thơ Ấu.

 

Ôi Giêsu, Bạn thiết yếu của chúng con! Đây chúng con đầy thiện chí, đầy cương quyết, nguyện yêu Chúa hết trí lòng, dầu con đường Tình yêu Chúa đầy gian nan đau khổ, đầy hiểm hóc, đầy chông gai, chúng con nguyện yêu Chúa đời đời, yêu Chúa mãi mãi không hề ngơi.  Nhưng hỡi Giêsu Bé nhỏ!  Để chúng con được nên giống Chúa, được theo con đường thơ ấu Chúa muốn dậy chúng con, chúng con nài xin Chúa:  

  1. Ban ơn Thánh Hóa đặc biệt cho chúng con, để hồn xác chúng con được luôn trong sạch như trẻ thơ, trí lòng được luôn Khiêm-Nhượng Tùng-phục, dễ nghe theo chân lý đường trọn lành của phúc âm.

  2. Xin Chúa ban ơn thánh phi thường dàn dụa, để tâm hồn chúng con được luôn đơn sơ, cởi mở, chân thành, thật thà trên tay Mẹ cũng như trong tay các Bề trên Đại diện Chúa Mẹ.

  3. Hỡi Chúa Giêsu Bạn trung thành rộng rãi vô biên của chúng con!  Xin đổ nguồn ơn thánh dự dật, để chúng con biết sống vui tươi hồn nhiên, với một lòng cậy trông, phú thác hoàn toàn nơi Chúa Mẹ, không lo quá khứ, cũng chẳng màng chi tới tương lai, để chúng con từ nay trở nên Giêsu Bé nhỏ trong tay Mẹ, nhờ Mẹ cứu các tội nhân, cứu nước Việt nam, quê hương thân yêu của chúng con. Amen

Ngoài ra, vào Mùa Vọng và Giáng Sinh, trong Dòng thường hát bài nhạc được vị linh mục tiên khởi của Dòng phổ nhạc Lời Nguyện Tắt của ngài sau đây:

 

"Hỡi Chúa Hài Đồng. Xin cho con biết hạ mình xuống. Khiêm nhượng và đơn sơ như trẻ con, để con được làm bạn thân của Chúa".

 

 

Biến dạng từ dị dạng trở lại nguyên dạng

 

Được nghe rất nhiều điều xẩy ra chung quanh biến cố Cha Thủ qua đời và an táng, ngoài những sự có tính cách tích cực còn có cả một số những sự tiêu cực về cả chính quyền lẫn giáo quyền, tôi đã chân thành chia sẻ những xác tín và cảm nhận của mình như sau:

 

1) Thiên Chúa sẽ từ từ (chứ không ngay một lúc) tỏ vinh quang của Ngài ra cho chúng ta thấy.

 

2) Những ai được Ngài tỏ mình ra cho dù đã như cành nho sinh trái lại càng cần được tỉa đi cho càng sinh trái hơn. 

 

3) Thiên Chúa bao giờ cũng tỏ mình qua Thánh Giá và biến dữ thành lành, như đã từng biến một Saulê thành Phaolô. Mưu tính của con người cho dù khôn ngoan nhất cũng sẽ trở thành dại khờ trước Đấng vô cùng khôn ngoan thượng trí (x 1Cor. 1:27-29), Đấng lợi dụng chính những dại khờ ấy để tỏ mình ra một cách rạng ngời hơn, cho cả chính thành phần "dại khờ" này nữa, chứ không phải chỉ cho cành nho đã sinh trái mà thôi.

 

4) Nguyên việc đổi chỗ an táng cho Cha Thủ là một chứng cớ hùng hồn nhất cho thấy ứng nghiệm lời Chúa Giêsu phán ở Bài Giảng Trên Núi "không ai thắp đèn rồi để dưới đáy thùng" (Mt 5:14). Vì Cha Thủ là "gia sản" chung của Giáo Hội Việt Nam và cho chung Dân Nước Việt Nam. Cha Thủ đã huấn thánh (anh em Dòng) cho Việt Nam và hằng cầu nguyện cho Việt Nam hòa bình và hết cộng sản.

 

5) Biết đâu 5 năm sau, khi cải mộ Cha Thủ để bắt đầu tiến trình phong Thánh cho ngài, người ta sẽ thấy xác ngài còn nguyên, không phải là thân xác dị dạng trước khi chết mà là nguyên dạng của một "Cha Thánh Thủ", để chứng tỏ rằng ngài thực sự đã phục sinh, ở chỗ thân xác ngài đã hoàn toàn được biến đổi (transformation).

 

Chớ gì Biến Cố Như Hạt Lúc Miến Mục Nát của ngài trổ sinh muôn vàn hoa trái nơi các hoạt động của anh em tu sĩ Đồng Công biết quyết tâm hơn nữa trong việc sống trung thực tinh thần Bỏ Mình, Yêu Nhau và Tận Hiến theo Lý Tưởng Thánh Đồng Công của ngài và với ngài!

 

 

Sự nghiệp một Hội Dòng

Cha Ðaminh Maria Trần Ðình Thủ, Ðấng Sáng Lập Dòng Ðồng Công. Sinh: 29-11-1906. Thụ Phong Linh Mục 22-05-1937. Ðược ơn Soi Sáng Lập Dòng 04-04-1941.

Lịch sử Dòng Ðồng Công gắn liền với lịch sử Ðấng Sáng Lập, trải qua những thăng trầm từ ngày phôi dựng đến khi thành Hội Truyền Giáo, từ ngày lập Dòng trong chiến tranh trải qua thời kỳ lận đận di cư vào Nam Việt, để rồi tại Nam Việt, Dòng bước dài với 20 năm phát triển. Nhưng, một cái nhưng do Thiên ý nhiệm mầu, biến cố tháng 4 năm 1975 đặt Hội Dòng vào khúc quanh mới, ghi dấu sự trưởng thành của Hội Dòng sau nhiều năm phấn đấu và cố gắng. Những dòng sau đây sơ lược lịch sử Hội Dòng Ðồng Công từ tháng ngày phôi dựng đến biến cố tháng 4 năm 1975.

VỊ SÁNG LẬP

Dòng Ðồng Công được sáng lập do một linh mục Việt Nam, cha Ðaminh Maria Trần Ðình Thủ. Cha Thủ tên thật là Trần Ðình Phan, sinh ngày 29-11-1906 tại Ðồng Quan, tỉnh Thái Bình, Bắc Việt. Cậu Phan là con thứ sáu trong số mười người con của cụ ông Ðaminh Trần Ðình Trí và cụ bà Maria Phạm Thị Thận. Thụ lãnh bí tích Thánh Tẩy ngày 8-12-1906, cậu dần lớn lên dưới mái ấm gia đình. Mùa Phục Sinh 1914 cậu được rước lễ lần đầu và chịu phép Thêm Sức. Với trí thông minh sẵn có, tính tình ngay thẳng, cương quyết và can đảm, cộng với lòng đạo đức và sự sùng mến Ðức Mẹ cách đặc biệt, năm 1915 cậu Phan dâng mình cho Chúa với mơ ước trở thành một linh mục.

Chín năm sau, tức năm 1924, cậu Phan nhập Tiểu Chủng Viện Ninh Cường, địa phận Bùi Chu. Học xong chương trình tại tiểu chủng viện, năm 1929, cậu bắt đầu học triết tại Bùi Chu rồi tại Giáo Hoàng Chủng Viện Thánh Alberto Nam Ðịnh. Sau hai năm triết là hai năm giúp xứ, thầy Phan được chỉ định giúp một họ giáo tân tòng. Năm 1933, thầy về trường Thần Học tại Giáo Hoàng Chủng Viện Thánh Alberto Nam Ðịnh. Bốn năm sau, thầy Phan thụ phong linh mục ngày 22-5-1937 do Ðức Cha Ðaminh Maria Hồ Ngọc Cẩn, Giám Mục bản quốc đầu tiên của địa phận Bùi Chu. Từ ngày chịu chức linh mục, cha Phan được Ðức Cha Hồ Ngọc Cẩn đổi tên là Trần Ðình Thủ. Trong những năm tại chủng viện, cha Thủ sống đời nhiệt thành, khắc khổ và gương mẫu, nên ngay sau khi chịu chức, cha đã được chỉ định làm cha linh hướng kiêm giáo sư triết học tại Ðại Chủng Viện Quần Phương, địa phận Bùi Chu.

THÁNG NGÀY PHÔI DỰNG

Trong những năm làm cha linh hướng và giáo sư Ðại Chủng Viện Quần Phương (1937-1942), nhiều lần cha Thủ đã định đi tu dòng. Nhưng Thánh Ý Chúa lại khác. Sáng sớm ngày 4-4-1941, lễ Ðức Mẹ Ðau Thương trong Tuần Thương Khó (theo niên lịch Phụng Vụ cũ), cha được ơn soi sáng lập một tu hội truyền giáo với chủ trương sống đời tận hiến cho Mẹ Maria. Trong thời gian nghiên cứu Giáo Luật và viết Hiến Pháp cho tu hội tương lai, ngày 21-11-1941, cha tận hiến cho Mẹ Maria theo kiểu mẫu Thánh Grignion de Monfort.

Ðầu năm 1942, Ðức Cha Hồ Ngọc Cẩn chấp thuận cho cha Thủ từ chức linh hướng và giáo sư đại chủng viện, để giúp việc truyền giáo trong địa phận Bùi Chu, với tư cách là Trưởng Ban Truyền Giáo của địa phận. Ðây là cơ hội tốt để cha thu nhận "môn đệ", thiết lập và thí nghiệm tu hội mới. Ngày 2-2-1942, cha khấn tư trọn đời lo việc truyền giáo, và bắt đầu thi hành sứ mệnh Trưởng Ban Truyền Giáo.

Cuối tháng 6-1943, cha Thủ đệ đơn xin nghỉ làm Trưởng Ban Truyền Giáo. Ðức Cha đồng ý, và đầu tháng 7-1943 cử cha đi coi xứ Dương A. Dương A chính là "trụ sở đón nhận và huấn luyện các tu sĩ Ðồng Công tiên khởi" (Lý Tưởng Ðồng Công, tr. 53). Tại Dương A, nhiều thanh niên thiện chí đến xin theo đường lối của cha, đa số là các thầy giảng, các chủng sinh, và các cậu rút khỏi trường Thầy Giảng, chủng viện, và Nhà Ðức Chúa Trời. Hồi đó tổ chức của cha chưa có tên và quy luật rõ rệt, người ta chỉ gọi cách vắn tắt, dễ hiểu là "Dòng Cha Thủ".

Những anh em tiên khởi của Dòng.

Việc đó đến tai Ðức Cha, ngài tỏ ra bất bình, cấm không cho nhận ai vào "Dòng Cha Thủ", và bắt giải tán những người đã được nhận. Ðể vâng lời Ðức Cha, cha Thủ chỉ giữ lại vài ba người như kiểu các thầy các cậu mà hồi đó xứ nào cũng có, còn bao nhiêu cha gửi đi học tại Hà Nội hoặc tạm lánh lên Phú Thọ, Chapa, Yên Bái làm ăn. Ðể dập tắt ý định lập dòng của cha Thủ, cuối tháng 6-1946, Ðức Cha ra lệnh đổi cha về xứ Liên Thủy, một xứ sát liền Toà Giám Mục, với chủ ý dễ bề kiểm soát các hành động của cha.

Hội Truyền Giáo Ðồng Công:

Khi chuyển về Liên Thủy, cha Thủ đã có chừng 20 "môn đệ". Vì xứ Liên Thủy ở ngay bên Bùi Chu, đường lối thuận tiện, nên "Dòng Cha Thủ" lại lôi kéo sự chú ý của rất nhiều người. Họ đến xin vào "Dòng" của cha ngày một đông. Trải qua nhiều sóng gió, cộng đoàn bé nhỏ của cha Thủ vẫn được dân chúng quý mến, nhân số ngày càng tăng. Ðến năm 1948 đã có chừng 40 người tình nguyện theo chí hướng của cha. Một điều lạ là từ trước tới giờ Ðức Cha Hồ Ngọc Cẩn vẫn khăng khăng chống lại ý định của cha Thủ, thế mà ngày 15-8-1948, ngài tự tay viết và ký giấy chính thức nhận cho nhóm người của cha là một Hội Ðạo Ðức (Pia Unio), và được hoạt động công khai theo Giáo Luật. Trước đó ngài phản đối bao nhiêu, thì từ sau khi ký giấy công nhận, ngài ủng hộ và bênh vực bấy nhiêu. Nhưng chỉ 100 ngày sau khi ký giấy thành lập Hội Truyền Giáo Ðức Mẹ Ðồng Công Cứu Chuộc, Ðức Cha qua đời. Trong thời gian Toà Giám Mục trống ngôi, hội lại trải qua một cơn bão tố dữ dội do Hội Ðồng Ðịa Phận gây nên. Tuy nhiên, việc Chúa đã định làm, dầu giữa gai góc cũng vẫn triển nở xinh tươi.

Việc Ðức Cha thành lập Hội Truyền Giáo Ðức Mẹ Ðồng Công Cứu Chuộc mở một con đường mới cho tu hội tương lai của cha Thủ, cha liền bắt tay tổ chức hội thành một đoàn thể lâu dài. Hồi đó, hội vẫn chưa có quy luật và tục lệ thành văn, nhưng đời sống cộng đồng được duy trì là do sự "trông nhau mà giữ", cha Thủ chỉ hướng dẫn anh em về phương diện tu đức và một vài cách thức cai trị bên ngoài thôi. Sau khi nhập hội được ít lâu, những anh em thiện chí được giới thiệu dâng mình cho Ðức Mẹ để bắt đầu thời gian luyện tập, thường kéo dài một năm. Sau thời gian luyện tập này, những anh em đủ điều kiện sẽ khấn tư ba lời khấn: 1) vâng lời Bề Trên 2) để sản vật làm của chung. 3) chuyên lo việc truyền giáo. Lần đầu khấn ba năm rồi khấn trọn đời. Tinh thần Bác Ái và Bình Dân được đề cao ngay từ thuở đầu. Cha Thủ rất hài lòng khi được anh em gọi là "Anh Cả" của Ðoàn Ðồng Công.

Hồi đó có mấy linh mục trong địa phận tán thành đường lối của cha Thủ, đã tình nguyện cộng tác xây dựng Hội Truyền Giáo. Số người xin gia nhập ngày càng đông, nên cha chia hội thành nhiều "đội", mỗi đội sống quây quần tại một xứ dưới sự hướng dẫn của một linh mục đồng chí, tức là cha xứ. Tất cả được ba đội, mỗi đội từ 10 đến 20 anh em, không kể "đội mẹ" ở Liên Thủy có chừng trên dưới 40 người.

Tháng 2 năm 1950, Toà Thánh đặt Ðức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi làm Giám Mục Bùi Chu. Ðức Cha nhiệt tình ủng hộ công cuộc của cha Thủ. Nhận thấy Hội Truyền Giáo của cha Thủ cần phải trở thành một tu hội theo Giáo Luật để giúp ích cho Giáo Hội mai sau, Ðức Cha khuyên cha Thủ nên viết Hiến Pháp để Ðức Cha gửi sang Toà Thánh xin phê chuẩn. Hiến Pháp được dịch sang Pháp ngữ rồi La ngữ và trao cho Ðức Cha gửi đi. Toà Thánh chấp thuận và ký duyệt y ngày 15-12-1952.

Giai Ðoạn Dòng Thành Lập Theo Giáo Luật

Ngày 2-2-1953 là ngày thành lập Dòng Ðức Mẹ Ðồng Công Cứu Chuộc. Hôm đó Ðức Cha Chi gửi văn thư báo tin mừng cho cả địa phận và ban sắc thành lập Dòng theo Giáo Luật. Ngài đến Liên Thủy chủ lễ khai Dòng, đồng thời trao áo Dòng cho 36 tập sinh đầu tiên của Dòng. Vì nhiều lý do, cha Thủ chưa vào Nhà Tập lớp đầu, nhưng Ðức Cha Chi vẫn đặt cha làm Giám Ðốc Dòng Ðồng Công. Về sau, Ðức Cha đã xin Toà Thánh cho cha Thủ khỏi vào Tập Viện, và được khấn trọn đời ngày 2-2-1955 tại Gia Ðịnh, Nam Việt.

Tính đến đầu năm 1953, Dòng Ðồng Công chưa có cơ sở nào khả dĩ làm được tu viện. Mọi sự đều nhờ vào nhà xứ Liên Thủy. Thấy đất chật người đông, Ðức Cha và cha Quản Lý địa phận đã thu xếp mua lại khu nhà Phước họ Trung Lễ, sát liền Liên Thủy, và trao cho Ðồng Công làm nơi kiến thiết tu viện đầu tiên của Dòng. Tuy nhiên, khu này cũng chỉ dung nạp được 36 tập sinh và gần 20 đệ tử, nhưng chỉ dùng làm chỗ ngủ và nơi đọc kinh, chứ chưa có nhà bếp, nhà cơm. Những anh em còn lại, và mọi tiện nghi khác, đều phải nhờ nhà xứ Liên Thủy.

Ngày 25-3-1954, lớp tu sĩ tiên khởi của Dòng tuyên khấn lần đầu. Tiếp liền theo lớp khấn này, lớp dự tu thứ hai được giới thiệu với con số 50 người. Theo dự trù, lớp dự tu này sẽ mặc áo Tập vào tháng 9-1954. Thế nhưng, tình hình đất nước thay đổi, Ðiện Biên Phủ thất thủ, quân Pháp rút khỏi Bùi Chu, Nam Ðịnh. Trước mối đe doạ của Việt Minh, ngày 5-7-1954 cha Thủ tạm giải tán anh em về quê chờ đợi tình thế. Hầu hết anh em tản mát mỗi người một phương, nhưng vẫn ôm hoài bão có ngày đoàn tụ. Trên 30 anh em chưa kịp đi thì ngày 10-7-1954 quân đội Việt Minh phong toả nhà xứ Liên Thủy và bắt 25 anh em biệt giam tại Trà Bắc. Ngày 30-7-1954, mười ngày sau khi ký hiệp định Genève, 25 anh em trên đây mới được trả tự do. Ðược biết hiệp định Genève chia đôi đất nước và dân chúng được tự do chọn nơi cư trú, cha Thủ quyết định di cư toàn Dòng vào Nam Việt.

Di Cư Vào Nam

Một điều lạ là trước ngày 3-8-1954 Việt Minh ở Bùi Chu không cấp giấy cho bất cứ ai ra khỏi thôn mình, thế mà từ chiều hôm đó anh em Ðồng Công tới xin giấy thông hành, thì người cán bộ cứ cắm cúi viết giấy cho anh em và không vặn hỏi lý do. Một điều lạ khác là hầu hết anh em giải tán về quê, chiều ngày 3-8-1954 tự nhiên lục tục về Liên Thủy thăm Dòng, và mọi anh em đều xin được giấy thông hành như vậy. Cầm giấy trên tay anh em chia thành từng nhóm đi Hải Phòng. Chỉ trong một tuần lễ, hầu hết anh em đã có mặt tại Hải Phòng, mặc dầu có nhiều anh em ở xa Liên Thủy, không được biết ý định di cư của cha Thủ. Ngày 10-8-1954, anh em xuống tầu ville de Haiphong của hãng Denis Frères vào Nam Việt.

Tầu cập bến Bạch Ðằng, Sài Gòn, ngày 13-8-1954. Anh em Dòng trước tiên tạm cư tại Phú Nhuận rồi Biên Hoà, sau đó chuyển xuống Bình Ðức thuộc tỉnh Mỹ Tho, rồi về Hoà Khánh, Sađéc. Ngày 3-12-1954, Dòng lại di cư xuống Cù Lao Giêng (xã Tân Mỹ, quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên) do lời mời của Ðức Cha Chabalier, Giám Mục địa phận Nam Vang. Tại Cù Lao Giêng, lớp Tập thứ hai gồm 41 anh em tận hiến cho Mẹ ngày 15-12-1954. Nhưng Dòng Ðồng Công chỉ ở Cù Lao Giêng được gần một năm. Cuối tháng 11-1955, Dòng di chuyển về Thủ Ðức và bắt đầu một giai đoạn mới.

HAI MƯƠI NĂM PHÁT TRIỂN DÒNG (1955-1975)

Cho tới lúc này, Dòng Ðồng Công mới thành lập được gần ba năm, nhưng đã trải qua nhiều biến cố quan trọng song song với các biến cố của đất nước. Việc Dòng định cư tại Thủ Ðức ghi dấu đoạn đầu của 20 năm phát triển Hội Dòng, từ năm 1955 đến năm 1975. Trong 20 năm, Dòng Ðồng Công ngày một phát triển cả về nhân số cả về bề sâu và bề rộng.

Trước hết, xét về nhân số, khi di cư vào Nam Việt toàn Dòng có chừng 125 anh em, nhưng đến đầu năm 1975, tổng số anh em Dòng là 624, trong số đó có 177 tu sĩ vĩnh thệ (kể cả 23 linh mục), 91 tu sĩ hạn thệ, 4 tập sinh, 54 cộng sự viên, 281 em đệ tử, và 17 anh em đã qua đời. Cho tới năm 1975, Dòng Ðồng Công chưa bao giờ nghĩ tới việc cổ động ơn thiên triệu, mà hàng năm, số người xin nhập Dòng vẫn nhiều, trong số đó có cả linh mục và chủng sinh. Thời gian đầu, Ðệ Tử Viện chưa được chính thức thành lập, thế mà năm nào cũng có trên 100 đến 200 em xin gia nhập. Những người tu muộn cũng chiếm một phần không nhỏ. Vì ơn kêu gọi đông như vậy, nên mỗi lớp Tập thường có ít nhất trên 30 tập sinh. Tính đến năm 1975, Dòng có tất cả 11 lớp tu sĩ khấn.

Về bề sâu, Ðệ Nhất Ðại Công Hội của Dòng diễn ra hồi tháng 3 năm 1963. Ðại Công Hội đã chính thức bầu cử Tổng Giám Ðốc của Dòng, thay vào quyền Giám Ðốc vẫn do cha Thủ đảm nhiệm theo sự ủy thác của Ðức Cha Chi từ ngày thành lập Dòng. Toàn thể nghị huynh đã bầu cha Thủ làm Tổng Giám Ðốc tiên khởi của Dòng. Ðại Công Hội cũng thảo luận và nghị quyết về những Tục Lệ từ trước vẫn thi hành trong Dòng và vạch một đường lối đi vào tương lai. Tháng 9 năm 1970, Ðệ Nhị Ðại Công Hội được tổ chức theo Hiến Pháp Dòng. Ðại Công Hội này đã đồng tâm hợp ý suy tôn Ðấng Sáng Lập Dòng (cha Thủ) làm Tổng Giám Ðốc mãn đời, cho tới ngày cha cần rút lui để chuẩn bị cho người thay thế cha cai quản Dòng. Ngoài việc bầu Hội Ðồng Tổng Quản mới, Ðại Công Hội còn soạn thảo và biểu quyết một số quy chế, đồng thời tu chính Hiến Pháp và Tục Lệ cho hợp với thời hậu Công Ðồng Vaticanô II. Ðại Công Hội cũng tham luận và biểu quyết các chương trình nghị sự có liên quan đến việc cải thiện mọi phần tử Dòng.

Dòng Ðồng Công là một Dòng gồm linh mục và tu sĩ, các nhiệm vụ chính trong Dòng cũng như tại các cơ sở truyền giáo phần lớn đều do các linh mục chỉ huy, nên Dòng cần có một Học Viện để đào tạo các linh mục. Trong giai đoạn đầu, Dòng gửi một số anh em học tại Ðại Chủng Viện Xuân Bích, Thị Nghè, và Ðại Chủng Viện Thánh Giuse, Sài Gòn. Từ năm 1961, Dòng được phép lập Học Viện riêng. Mặt khác, để có bằng cấp của Giáo Hội và chính phủ, Dòng đã gửi một số linh mục du học tại Rôma và nhiều anh em học tại các đại học đạo cũng như đời. Lớp Thần Học đầu tiên do Dòng huấn luyện.

Về bề rộng, trong 20 năm đầu, Dòng Ðồng Công đã có nhiều cơ sở:

Khu Nhà Mẹ thời gian đầu đặt tại Thủ Ðức. Ðến năm 1963, Dòng chuyển Nhà Mẹ ra Nhà Ðá (thuộc xã Mỹ Hiệp, quận Phù Mỹ, tỉnh Bình Ðịnh). Trung bình có trên 100 anh em sống tại Nhà Mẹ. Sau vì tình hình chiến tranh, khu Nhà Mẹ lại phải dời về Thủ Ðức năm 1974. Cũng tại Thủ Ðức, Dòng còn một tu viện lớn dung nạp chừng 70 người. Một Ðệ Tử Viện đủ chỗ cho gần 300 em. Trường Trung Tiểu Học và Ký Túc Xá ÐỒNG CÔNG thiết lập từ năm 1956, hàng năm có từ 800 đến trên 1000 học sinh. Một Giáo Sĩ Dưỡng Ðường thiết lập từ năm 1957 để đón các cha già yếu về hưu và quý cha muốn có nơi tĩnh tâm thuận tiện một trại nuôi gà hoạt động từ năm 1965 đến 1973, một nhà in cỡ trung bình và toà soạn Nguyệt San Trái Tim Ðức Mẹ với số độc giả trên 40,000 vào năm 1975.

Tại tỉnh Phước Long, năm 1962, Dòng lập một nhà ở Ðôn Luận. Công việc đang tiến triển thì chiến tranh lan rộng. Dòng bó buộc phải tạm bỏ cơ sở này vào năm 1964. Bù vào đó, Dòng vẫn còn một sở nhỏ tại xứ Châu Ninh, quận Bố Ðức. Sở này có một linh mục và một số anh em giúp việc trong xứ.

Tại tỉnh Bình Ðịnh, từ năm 1957, Dòng nhận phụ trách một khu truyền giáo trong địa phận Qui Nhơn tức là khu Mỹ Chánh thuộc quận Phù Mỹ. Ngoài việc rao giảng lời Chúa cho đồng bào tại xã Mỹ Chánh và các xã lân cận, Dòng còn mở trường Trung Học Toàn Mỹ tại Mỹ Chánh dạy miễn phí cho 400 học sinh. Vì tình trạng chiến tranh, năm 1964, khu truyền giáo Mỹ Chánh cùng với trường Toàn Mỹ tạm đóng cửa, mãi đến năm 1967 mới mở cửa lại. Khi Nhà Mẹ của Dòng chuyển ra Nhà Ðá, Dòng cũng thiết lập tại đây trường Trung Tiểu Học Ðồng Công dạy miễn phí cho 1,000 học sinh. Cũng tại tỉnh Bình Ðịnh, Dòng còn hai cơ sở: một tại Qui Ðức thuộc thị xã Qui Nhơn, một ở chính quận Phù Mỹ mỗi cơ sở có thể dung nạp vài ba chục người. Trường Trung Tiểu Học Ðồng Công tại Phù Mỹ khai giảng năm 1970 với khoảng 400 học sinh.

Tại tỉnh Bình Dương, năm 1965, Dòng lập một tu viện ở xã Bình Nhâm thuộc quận Lái Thiêu. Tu viện này trước vốn là một nhà Tĩnh Tâm của anh em Dòng, được thiết lập từ năm 1958. Nhưng năm 1971, Dòng bán lại cho giáo phận Phú Cường.

Tại thị xã Ðà Lạt, năm 1970 Dòng thiết lập cư xá sinh viên Rạng Ðông để giúp các sinh viên nghèo có nơi cư trú theo học đại học Ðà Lạt. Năm 1975 có chừng 70 sinh viên sống tại cư xá Rạng Ðông. Cạnh đó là một tu xá, nơi cư trú của chừng 20 tu sĩ Ðồng Công theo học đại học. Dòng cũng cho một số tu sĩ giúp Tiểu Chủng Viện Simon Hoà từ năm 1968, giúp Ðại Học Ðà Lạt từ năm 1969, và giúp Cư Xá Sinh Viên Trương Vĩnh Ký từ năm 1972.

Tại tỉnh Lâm Ðồng, từ năm 1971 Dòng lập một tu viện tại Ðồng Lạc thuộc quận Di Linh có thể dung nạp chừng 100 anh em. Tu viện này toạ lạc trong một khu đồn điền rộng 47 mẫu tây trồng trà, cà phê, bơ, mít... mà Dòng đã mua lại của một người Pháp. Ngoài ra, Dòng còn cử một số tu sĩ trông coi và điều khiển hai đồng điền trà, cà phê... thuộc Ðại Học Ðà Lạt: một tại Ðại Nga, gần tỉnh ly?Lâm Ðồng, một tại Zdiratô.

Tại tỉnh Bình Thuận, đầu năm 1974, Dòng lập một cơ sở ở xã Lương Sơn thuộc quận Hoà Ða, dung nạp chừng 15 anh em, và một trường Trung Tiểu Học dạy miễn phí cho 400 học sinh. Ngoài ra, một đồn điền rộng 100 mẫu tây tọa lạc tại Bầu Ốc đang được khai phá thì tình hình đất nước biến chuyển đến hồi nghiêm trọng, mọi hoạt động đều phải bỏ dở. Ðầu tháng 4-1975, anh em làm việc tại Lương Sơn phải di tản về miền Nam.

Dòng Ðồng Công đang trên đà phát triển về nhân số, về bề sâu và bề rộng, thì biến cố tháng 4-1975 đưa Dòng vào một khúc quanh lịch sử. Trên 170 linh mục, tu sĩ của Dòng vượt trùng dương về miền vô định. Còn chừng 150 linh mục, tu sĩ, cộng sự viên, và gần 300 em đệ tử ở lại Việt Nam. Lịch sử Hội Dòng bắt đầu một chương mới.

http://www.dongcong.net/DongDongCong/LuocSuDong.htm

 

 

Sự nghiệp một Chi Dòng

 

Lịch sử Dòng Đồng Công gắn liền với lịch sử Việt Nam. Một trong những biến cố quan trọng nhất của đất nước là việc miền Nam rơi vào tay cộng sản. Dòng Đồng Công vì thế cũng phải chấp nhận những phân ly đau đớn. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, trên 170 phần tử của Dòng phải rời xa quê hương, di cư lần thứ hai tới đất khách quê người, để lại khoảng 150 linh mục, tu sĩ và gần 300 em đệ tử sinh bên kia bờ đại dương. Nhóm anh em di cư đã làm nên lịch sử Chi Dòng Đồng Công Hoa Kỳ.

1. Cuộc Di Cư Vô Định:

Mặc dầu được qui định trong Hiến Pháp cũng như Tục Lệ Dòng, nhưng việc thiết lập những Chi Dòng Đồng Công ngoại quốc chưa bao giờ có cơ hội thực hiện. Đến đầu tháng 4 năm 1975, vì tình trạng khẩn trương của miền Nam Việt Nam, cha Tổng Giám Đốc phải để một số lớn anh em di chuyển xuống Phước Tỉnh, một làng tại bờ biển Phước Tuy, để khi hữu sự sẽ làm một cuộc vượt trùng dương tuy vô định nhưng với lòng cậy tin mạnh mẽ nơi Chúa Quan Phòng. Trong lúc đó, tại Nhà Mẹ, Hội Đồng Tổng Quản Dòng quyết định thành lập Chi Dòng Đồng Công Hải Ngoại với mục đích để dễ dàng "bảo tồn Dòng và phát triển việc truyền giáo". Ngày 23 tháng 4 năm 1975, để thực hiện quyết định này, một Ban Lãnh Đạo cuộc di cư thành hình. Ban có trách nhiệm săn sóc hướng dẫn anh em và quyết định phương tiện ngày giờ ra đi. Sáng 27 tháng 4 năm 1975, tỉnh lyï Phước Tuy bị tấn công. Chiều ngày 29 tháng 4 năm 1975, Vũng Tàu bị phong toả. Anh em Đồng Công trên 7 chiếc thuyền đánh cá cùng với từng trăm chiếc khác của dân chúng mới hớt hả rẽ sóng ra khơi. Xa quê hương Việt Nam từ đó.

Giữa biển cả mênh mông, những con thuyền đánh trở nên quá mong manh bé nhỏ, luôn chao lên hụp xuống hãi hùng. Đang lúc lao đao nguy hiểm, rất may một vài chiếc trực thăng lác đác từ đất liền bay cùng hướng ra khơi. Đoán được có tàu lớn ngoài hải phận quốc tế, các thuyền cùng loạt gắng nhoài theo hy vọng. Quả vậy, sau nhiều giờ vật lộn với sóng nước chập chờn, đoàn người đã gặp được những chiếc tàu chở hàng khổng lồ của Hoa Kỳ sừng sững hiện ra. Khi biết mình được cứu nguy, mọi người nhốn nháo quên cả mệt mã, hết cả say sóng, chen chúc nhau lên tàu bằng mọi cách. Ai cũng sợ số người được cứu vớt có hạn, nên cảnh tượng xô bồ rất hỗn loạn xảy ra, khiến nhiều người rớt xuống thuyền, xuống biển thiệt mạng, nhiều gia đình bị xé lẻ. Vì thế, anh em Đồng Công bị phân tán lên nhiều tàu khác nhau. Có anh em chưa lên được ngay, bị trôi dạt cả tháng, phải chống chọi với biển nước mênh mông. Có anh em không còn tàu vớt đã thất vọng quay trở lại đất liền chấp thuận sống với quyền lực mới. Trên tàu, tâm trạng mọi người đang hoang mang thì qua đài phát thanh, ông Dương Văn Minh nghẹn ngào tuyên bố đầu hàng cộng sản và trao trọn miền Nam cho quyền lực mới. Nhiều người bật khóc tức tưởi. Hôm đó là ngày 30 tháng 4 năm 1975 đau buồn.

2. Những Ngày Tháng Tạm Cư

Một tuần lễ trên biển cả vượt nửa vòng trái đất, anh em Đồng công cùng với từ ba, bốn ngàn đồng bào trên mỗi chiếc tàu nhân đạo, đã lần lượt được đưa đến các trại tị nạn trên đảo Guam, đảo Wake, rồi từ đó vào các trại tạm cư trong lục địa Hoa Kỳ như Pendleton, Fort Chaffee, Indiantown Gap, để lập thủ tục giấy tờ và tìm kiếm người bảo trợ. Tuy mỗi lần di chuyển là mỗi lần bị phân tán mỏng, nhưng anh em Đồng Công đều cố gắng duy trì đời sống tu trì chung với nhau bao nhiêu có thể, và lợi dụng hoàn cảnh như một dịp truyền giáo thực tế.

Có rất nhiều gia đình, tu hội hay giáo xứ Mỹ hảo tâm đứng ra bảo lãnh cho các gia đình tị nạn Việt Nam lúc đó. Tuy nhiên, nói đến bảo lãnh cho cả một cộng đoàn như nhóm anh em Đồng Công di cư quả là một vấn đề! Một số anh em tới Fort Chaffee trước đã cố gắng dò hỏi và bàn thảo với một số linh mục Việt Nam du học tại Mỹ lâu năm. Các vị đều cho mong ước sống chung gần 200 người như một tu viện khi đó là điều không thể thực hiện được. Các vị góp ý nên phân tán mỏng để được bảo trợ đi các nơi, sau này làm ăn dễ dàng rồi tụ họp lại thì có hy vọng giải quyết vấn đề. Thực ra, theo cách thường, đó là những ý kiến chính đáng và hợp lý, nhất là đối với xã hội này. Nhưng với quan niệm của đa số phần tử Đồng Công, thì đó quả là một tan tác đau thương. Thế nên, mọi người tiếp tục suy tính, và nhất là cầu nguyện để xin Chúa sắp xếp cách thế như ý Chúa an bài.

Việc phải đến đã đến. Với nhiệm vụ Phó Tuyên Úy trại tị nạn Fort Chaffee, AR, cha Thomas McAndrew hiểu biết hoàn cảnh và nguyện vọng của một cộng đồng Dòng đông đảo như vậy, ngài đã tình nguyện giúp đỡ liên lạc, đồng thời khích lệ anh em vững tâm tin vào tình yêu Chúa Quan Phòng lo liệu. Chính nhờ vị ân nhân này, Hội Đồng Cố Vấn địa phận Springfield-Cape Girardeau, Missouri, dưới quyền chủ toạ của Đức Cha Bênađô Law trong một phiên họp ngày 28 tháng 5 năm 1975, đã quyết định sẵn sàng bảo trợ và nhận mọi phần tử Đồng Công vào giáo phận mình. Tin mừng đó đã phấn khích anh em vững tâm và hân hoan không ít. Chỉ sau đó một tuần, Đức Cha Law (sau này làm Hồng Y Tổng Giám Mục Boston, MA) đích thân đến trại Fort Chaffee để gặp gỡ, thăm hỏi, dâng lễ và tiến hành thủ tục bảo trợ. Cùng đi với ngài, có cha Chủ Tịch Hiệp Hội Các Dòng Nam tại Hoa Kỳ và cha Giám Tỉnh Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm (OMI), người đã chấp thuận cho Dòng Đồng Công mượn khu chủng viện Our Lady of the Ozark của Dòng tại Carthage, Missouri.

3. Định Cư:

Vượt trên mọi mong ước và ngoài cả những tính toán của anh em, tình thương Mẹ trên trời đã xếp đặt và lo liệu cho con cái Mẹ cách chu đáo tuyệt vời. Ngày 30 tháng 6 năm 1975, nhóm anh em đầu tiên (48 người) từ trại Fort Chaffee được xe bus chở về định cư tại Carthage. Đức Cha Law, Giám Mục giáo phận sở tại, cùng với một số vị ân nhân đã đến tận chủng viện vui vẻ đón tiếp và hân hoan chào mừng anh em vào địa phận ngài. Chủng viện này do các cha Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm quản trị trước đây, nhưng đã đóng cửa trên 5 năm, tuy nhiên vẫn được cha John Weissler, OMI, bảo trì săn sóc chu đáo. Ngoài toà nhà bằng đá to lớn ra, chủng viện còn có nhà nguyện, nhà thể thao, nhà ăn, nhà các cha và mấy sân banh rộng rãi.

Thế rồi, từ các trại tạm cư, anh em lần lượt được đưa về xum họp dần dần. Đồng thời cộng đoàn cũng chọn một Ban Quản Trị và Ban Cố Vấn lâm thời để tiệc việc điều hành. Cho đến ngày 8 tháng 8 năm 1975, lễ kính Thánh Đaminh, Bổn Mạng Đấng Sáng Lập, nhóm anh em từ đảo Wake mới về tới Carthage. Thế là kể như anh em đã đoàn tụ đông đủ sau 4 tháng phiêu linh lưu lạc. Nhiệm vụ của Ban Tổ Chức Di Cư chấm dứt, và quyền lãnh đạo cộng đoàn được trao cho cha Cyrillô Vũ Thanh Thiên, Tổng Bí Thư đương nhiệm, là người độc nhất trong Hội Đồng Tổng Quản Dòng đi được với anh em. Cha Tổng Bí Thư đã cùng với anh em cầu nguyện và tổ chức một Đại Hội để bầu cử Hội Đồng Quản Trị Dòng Đồng Công Hải Ngoại (danh xưng lúc đó). Hội Đồng này gồm một vị Giám Đốc (linh mục Ignatiô M. Lê An Đại), bốn vị Phụ Tá, Thư Ký, và Quản Lý với nhiệm kỳ 3 năm (1975-1978). Sau khi tường trình với Toà Thánh về việc bảo trợ Dòng Đồng Công, Đức Cha Law được Thánh Bộ Truyền Giáo ủy thác trách nhiệm bản quyền đối với Dòng Đồng Công Hải Ngoại theo văn thư Protocol số 4546/75 ký ngày 16 tháng 9 năm 1975.

4. Phát Triển:

Kể từ đó, với sự an bài kỳ diệu của trời cao, Dòng Đồng Công Hải Ngoại bắt đầu phát triển về nhiều phương diện. Từ việc đào sâu và thực thi đứng đắn các Tinh Thần Dòng, các lời trăn trối của Đấng Sáng Lập qua những năm thiêng liêng được tổ chức như năm Thơ Ấu (1978), năm Cậy Trông (1980), năm Bác Ái (1983), qua những dịp học hỏi, huấn đức, qua các lớp Thánh Kinh, Thánh Mẫu, các cuộc cấm phòng... đến việc phát triển văn hoá do sự tiếp tay của các Dòng Hoa Kỳ gửi người đến dạy Anh ngữ cho anh em, thuyết trình về văn hoá và phong tục người Mỹ. Ngay năm sau, Dòng đã gửi anh em vào các trường đại học như Southwest Missouri State University, Springfield, MO; Benedictine College, Atchison, KS; Columbia, MO; hoặc học các ngành chuyên môn như nghề in, nghề hình tại Atchison, KS; nghề trồng tỉa tại Omaha, NE; nghề y tá tại Joplin, MO. Về tiến chức, Đức Cha Law đã truyền chức Phó Tế và sau đó chức Linh Mục cho 12 anh em tại Springfield vào năm 1976 và 1977. Dòng tiếp tục gửi anh em vào các chủng viện triết học như Conception Seminary College, Conception, MO; chủng viện thần học Kenrick, St. Louis, MO. Notre Dame Seminary, New Orleans, LA.

Công cuộc hiến dâng nối tiếp qua các lớp khấn tạm, khấn trọn. Đệ Tử Viện hình thành từ tháng 8 năm 1975 với con số 16 đệ tử sinh, để đến niên khóa 1978-1979 sĩ số lên tới 50 em. Cũng nhờ đó số thỉnh sinh và tập sinh của Dòng ngày một đông đảo. Tuy ơn gọi hàng năm vẫn dồi dào, nhưng hiện thời Đệ Tử Viện chỉ đủ chỗ cho 30 em mỗi năm. Số chí nguyện sinh lớn tuổi hơn vẫn xin đến tìm hiểu ơn gọi và nếu đủ điều kiện, vẫn tiếp tục nhập Thỉnh Viện, Tập Viện của Dòng.

Về cơ sở, ngay từ tháng 9 năm 1976, Dòng thiết lập thêm một tu viện chính thức theo Giáo Luật tại Dwight, NE (sau này di chuyển về Lincoln, NE), và một tu xá (nơi anh em trú ngụ để theo học đại học) lấy tên là Tu Xá Mẹ Mân Côi tại Springfield, MO. Tháng 12 năm 1976, Dòng mua một nông trại 107 mẫu Anh tại Ash Grove, MO, để chăn nuôi gia súc và trồng tỉa. Tháng 6 năm 1978, vì nhu cầu anh em theo thần học, Dòng đã mua nhà tại St. Louis, MO, làm tu xá Mẹ Dâng Mình. Sau đó, tháng 2 năm 1980, Dòng tiến về miền Nam mua một trụ sở tại Houston, TX, để lập nhà in Sao Mai.

Đặc biệt nhất là từ tháng 5 năm 1981, Dòng mua hẳn khu nhà chính tại Carthage, MO, do Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm bán lại. Với khế ước mua bán này, Dòng quản trị luôn Đền Thánh Khiết Tâm Mẹ, khu nhà in phí tây đại lộ Grand, nhà ăn, nhà thể thao, và Giáo Sĩ Dưỡng Đường, nơi ngay từ tháng 7 năm 1977 Dòng được hân hạnh đón tiếp các Đức Cha, quý cha về hưu dưỡng tại đây, trong đó có Đức Tổng Giám Mục Phêrô M. Ngô Đình Thục, Đức Giám Mục Giacôbê Huỳnh Văn Của, cha nguyên Viện Trưởng Đại Học Đà Lạt Lê Văn Lý, cha nguyên Viện Trưởng Đại Học Huế Cao Văn Luận, cha nguyên chánh xứ La Vang, Quảng Trị, Phêrô Trần Điển, cha giáo Giuse Phạm Tuấn Trang, CM... Đến tháng 8 năm 1985, Dòng mở rộng sang miền tây, mua nhà xứ Đức Mẹ Guadalupe thuộc thành phố Highgrove, CA, để lập Đền Thánh Đức Mẹ Dâng Con giúp cho các hoạt động tông đồ thiết thực hơn.

Để thực thi mục đích Truyền Giáo của Dòng, một số linh mục và anh em đã được cử đi phục vụ trực tiếp tại các giáo xứ, như làm chánh phó xứ Nữ Vương Việt Nam tại Port Arthur, TX (tháng 2/1977); giáo xứ Khiết Tâm Mẹ ại Lincoln, NE (tháng 6/1977); giáo xứ Mỹ St. Mary tại Joplin, MO; Immaculate Conception tại Springfield, MO; St. John Vianney tại Mountain View, MO; hoặc làm tuyên úy cho các cộng đoàn Công Giáo Việt Nam tại Grand Rapids, Detroit, MI; Lansing, MI; Green Bay, WI; Wichita Falls, TX; Fort Worth, TX; Oklahoma City, OK; Omaha, NE; Dodge City, KS; Kansas City, MO; St. Louis, MO; Boston, MA; Denver, CO; Wichita, KS; Salina, KS; Rogers, AR; Little Rock, AR; St. Paul, MN; Amarillo, TX; hoặc tuyên úy các bệnh viện như bệnh viện St. Vincent tại Monett, MO; St. Francis tại Mountain View, MO; v.v...

Để truyền bá mệnh lệnh Đức Mẹ Fatima, và để bảo tồn cùng phát huy văn hoá Việt Nam, ngay từ cuối năm 1977, Dòng tái bản Nguyệt San Trái Tim Đức Meï (thành lập từ năm 1949 tại Bắc Việt, tiếp nối tại Nam Việt năm 1954), và hô hào phong trào Đền Tạ Trái Tim Đức Mẹ. Hiện nay hai linh mục Dòng làm Tổng Tuyên Úy cho Đạo Binh Hồn Nhỏ và Đạo Binh Xanh Việt Nam tại Hoa Kỳ. Dòng mở Văn Phòng Liên Lạc Đền Thánh Khiết Tâm Mẹ (năm 1979) với các tuần cửu nhật hàng tháng để dâng lễ, cầu nguyện cho các gia đình gửi ý nguyện về xin khấn; đồng thời liên lạc bằng Lá Thư Đền Thánh đang được phổ biến rộng rãi. Ngoài ra, Dòng cũng thành lập Hội Truyền Giáo Đồng Công cho những người muốn cộng tác với Dòng rao giảng Tin Mừng. Từ ít năm gần đây, cứ vào độ Giáng Sinh, anh em cũng thiết trí cuộc triển lãm các hình điện ban đêm nội dung về lịch sử cứu độ, và mời dân chúng địa phương và các vùng lân cận đến coi để tưởng nhớ công ơn Cứu Chuộc của Chúa Cứu Thế và cảm mến Tình Thương của Ngài đối với loài người.

Dòng cũng bảo trợ và tổ chức những Ngày Thánh Mẫu vào mùa hè hàng năm. Những Ngày Thánh Mẫu này thường kéo dài từ chiều thứ Năm đến sáng Chúa Nhật của một cuối tuần. Chương trình gồm những Thánh Lễ liên tiếp cho các giới, các cuộc hội thảo, sinh hoạt, kiệu Thánh Thể, cung nghinh Thánh Tượng Mẹ Fatima. Lễ Đại Trào, nhất là những giờ hoà giải với Thiên Chúa và anh chị em. Số người tham dự mỗi năm một tăng. Từ năm 1978 với gần 1,500 người, sau đó số người tham dự mỗi năm cứ tăng thêm mãi cho đến gần 70 ngàn người tham dự trong Ngày Thánh Mẫu năm 2000.

Song song với các hoạt động đó, tháng 8 năm 1978, nhiệm kỳ I của Hội Đồng Quản Trị Dòng Đồng Công Hải Ngoại hết hạn, anh em đã liên lạc với Nhà Mẹ và được thư của Đấng Sáng Lập và Hội Đồng Tổng Quản chỉ định một Ban Quản Trị mới thay thế với thời hạn 5 năm (1978-1983). Cha Ignatiô M. Lê An Đại tái cử Giám Đốc (nhưng tháng 2 năm 1979 cha xin từ chức, và Hội Đồng Tổng Quản Nhà Mẹ đã cử cha Barnabê Nguyễn Đức Kiên thay thế). Cũng trong dịp này, Đại Hội kỳ II đã họp trong 3 ngày để thảo luận về cách áp dụng Tinh Thần Dòng cũng như một ít thích nghi chung.

Sau hai năm thi hành nhiệm vụ, Hội Đồng Quản Trị nhiệm kỳ II thấy với hoàn cảnh hiện thời của Việt Nam, sự liên lạc giữa Dòng Đồng Công Hải Ngoại với Nhà Mẹ, cách riêng với Đấng Sáng Lập, ngày một khó khăn, nên đã cử một phái đoàn sang Rôma để lĩnh ý của Toà Thánh về nội tình của Dòng tại hải ngoại. Được biết Thánh Bộ Truyền Giáo (vì Dòng ở xứ truyền giáo nên trực thuộc Thánh Bộ này) đã bàn hỏi với Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Bình, Tổng Giám Mục giáo phận có Nhà Mẹ của Dòng, và phái đoàn Đồng Công Hoa Kỳ, nên ngày 25 tháng 10 năm 1980, Thánh Bộ đã ký văn thư chính thức số Protocol N. 4931/80 thành lập CHI DÒNG ĐỒNG CÔNG HOA KỲ, và cử Đức Cha địa phận Springfield-Cape Girardeau, nơi có nhà Chi Dòng, giữ nhiệm quyền "giám sát" Chi Dòng trong thời hạn 10 năm kể từ ngày ký văn thư. Với sắc lệnh trên, Toà Thánh đồng thời cũng dành cho Đức Cha quyền bổ nhiệm vị Giám Tỉnh và bốn vị Phụ Tá của Tỉnh Dòng Đồng Công này mỗi khoá 3 năm.

Ngày 30 tháng 12 năm 1980, sau khi đã thăm dò ý kiến của các tu sĩ vĩnh thệ trong Dòng, Đức Cha Law, Giám Mục bản quyền đương nhiệm đã tuyên bố vị Giám Tỉnh nhiệm kỳ I (1981-1983) của Chi Dòng Đồng Công Hoa Kỳ (cha Barnabê M. Nguyễn Đức Kiên) và bốn vị Phụ Tá. Đến nhiệm kỳ II (1984-1986), cũng chính vị Giám Tỉnh đương nhiệm tái cử. Từ ngày thành lập Chi Dòng, Dòng thường xuyên liên lạc với các Thánh Bộ của Toà Thánh, nhất là Thánh Bộ Truyền Giáo, Đức Tin, và Dòng Tu; đồng thời cũng có nhiều cơ hội được triều yết riêng Đức Thánh Cha để tấu trình lên Ngài những điểm quan hệ về Dòng.

Dòng Đồng Công Hải Ngoại hay Chi Dòng Đồng Công Hoa Kỳ từ năm 1975, nhờ ơn Chúa và Đức Mẹ phù trì, đã trải qua những ngày tháng lênh đênh vô định trên biển cả, những tan tác phân ly trong các trại tạm cư, và đã được đoàn tụ êm ấm tại vùng đất yên hàn tự do hơn nữa, còn được những cơ hội thuận tiện, những tấm lòng ưu ái khích lệ, giúp đỡ, nên đã phát triển về nhiều phương diện đáng mừng. Phải chăng đó là quyền năng Chúa Quan Phòng và Đức Mẹ Đồng Công đã thực hiện qua những dụng cụ thô hèn bất tài là các phần tử Dòng, và qua những đóng góp rất quý giá cả tinh thần lẫn vật chất của các cha anh, của các đấng bảo trợ, của các vị ân nhân, các vị thân nhân và bạn hữu xa gần để Dòng Đồng Công nói chung và Chi Dòng Đồng Công Hoa Kỳ nói riêng có được bộ mặt và bước tiến như ngày nay. Những công ơn và những tấm lòng vàng đó chỉ trời cao mới có thể thấu hiểu và đền đáp cân xứng.

http://www.dongcong.net/DongDongCong/LuocSuDong/LuocSuChiDong.htm

 

 

Xin xem tiếp các bài liên hệ

 

Cha Đaminh Maria Trần Đình Thủ - Lý Tưởng Thánh Đồng Công

Lênh Đênh Hải Ngoại: Vượt Thoát hay Lên Đường